Vai trò của tín chỉ carbon trong thị trường carbon bắt buộc
Xung quanh câu chuyện tín chỉ carbon đang được dư luận quan tâm, ông Trần Văn Toản - Trưởng đại diện của Kosher Climate India Pvt Ltd tại Việt Nam đã có bài viết riêng cho Một Thế Giới.
Trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu, thị trường carbon bắt buộc nổi lên như một công cụ chính sách mạnh mẽ giúp cho các chính phủ thực hiện cam kết tự nguyện quốc gia (NDC).
Và tâm điểm của thị trường carbon bắt buộc là hàng hóa được trao đổi bao gồm hạn ngạch phát thải (Allowance) và tín chỉ carbon (Carbon credit); trong đó tín chỉ carbon được coi là đóng vai trò quan trọng định giá phát thải và thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp.

Trong bối cảnh quốc tế chung, Việt Nam đã đưa ra cam kết giảm phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) vào năm 2050 tại Hội nghị COP26 năm 2021, và hiện chúng ta đang nỗ lực thực hiện cam kết thông qua việc hoàn thiện thể chế chuyên biệt này ở cấp quốc gia.
Bên cạnh các công cụ, cơ chế khác nhau được triển khai, thị trường carbon được lựa chọn và lên kế hoạch phát triển như là tất yếu.
Mô hình, lộ trình phát triển thị trường carbon Việt Nam đã được mô tả cụ thể thông qua các văn bản pháp lý hiện hành như: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn, Quyết định số 232/2025/QĐ-TTg ngày 24/01/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Thành lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam và gần đây nhất là Nghị định số 119/2025/NĐ-CP ngày 09/6/2025 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn.
1. Tín chỉ carbon là gì trong thị trường carbon bắt buộc?
Về cơ bản, thị trường carbon bắt buộc nói chung và thị trường carbon Việt Nam nói riêng hoạt động theo nguyên tắc "Cap-and-Trade" (Hạn ngạch và Thương mại).
Cap" (Hạn ngạch): Chính phủ và cơ quan quản lý có liên quan sẽ đặt ra một mức trần tổng lượng khí nhà kính (KNK) hay còn gọi là phân bổ hạn ngạch phát thải mà các ngành công nghiệp và các doanh nghiệp thuộc đối tượng kiểm kê KNK bắt buộc theo Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg (được cập nhật 2 năm/lần) được phép thải ra trong một năm dựa trên mức phát thải khí nhà kính lịch sử trên đơn vị sản phẩm và mục tiêu tăng trưởng của lĩnh vực, mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của lĩnh vực, cơ sở. Mỗi hạn ngạch này tương đương với một tấn CO2 tương đương (tCO2e) và số lượng hạn ngạch sẽ được điều chỉnh định kỳ nhằm đạt mục tiêu khí hậu quốc gia.
"Trade" (Thương mại): Với việc được phân bổ hạn ngạch định kỳ như vậy, hằng năm, doanh nghiệp sẽ phải nộp lại số lượng hạn ngạch dựa trên phát thải khí nhà kính thực tế của công ty. Tùy thuộc việc doanh nghiệp tuân thủ quy định về mức trần phát thải được quy định ra sao, doanh nghiệp có thể tham gia trao đổi và mua bán hạn ngạch phát thải dư thừa hoặc bị thiếu trên thị trường carbon.
Bên cạnh hạn ngạch phát thải, tín chỉ carbon cũng đóng vai trò là hàng hóa trên thị trường carbon. Theo quy định tại Nghị định số 119/2025/NĐ-CP, tín chỉ carbon được cấp cho kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính từ ngày 01/01/2021 của chương trình, dự án thuộc Cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon trong nước và quốc tế sẽ được sử dụng để bù trừ không vượt quá 30% lượng hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ của cơ sở.
Như vậy, tín chỉ carbon là một phần của thị trường carbon trong nước và cho phép doanh nghiệp có sự linh hoạt trong tuân thủ quy định về hạn ngạch phát thải được phân bổ bởi Cơ quan quản lý Nhà nước.
2. Vai trò then chốt của tín chỉ carbon
Thay vì áp dụng các loại thuế carbon cứng nhắc, thị trường carbon bắt buộc mang lại sự linh hoạt. Doanh nghiệp đối mặt với hai lựa chọn:
Đầu tư giảm phát thải: Cải tiến công nghệ, sử dụng năng lượng tái tạo, tối ưu hóa quy trình sản xuất để giảm lượng KNK phát ra từ đó đáp ứng hạn mức phát thải được áp đặt.
Mua tín chỉ carbon: Nếu chi phí để giảm phát thải tại nguồn quá cao, doanh nghiệp có thể chọn phương án ít tốn kém hơn là mua tín chỉ carbon trên thị trường.
Sự linh hoạt này giúp doanh nghiệp tuân thủ quy định pháp luật mà không bị gián đoạn sản xuất đột ngột hay đối mặt với chi phí tuân thủ tăng cao khi mà các biện pháp giảm phát thải không phải lúc nào cũng phát huy hiệu quả về khía cạnh kỹ thuật và kinh tế, đồng thời vẫn đảm bảo tổng lượng phát thải của toàn nền kinh tế không vượt quá mức trần đã định.
Tạo động lực kinh tế cho việc giảm phát thải và đổi mới công nghệ.
Đây là vai trò quan trọng và sâu sắc nhất. Tín chỉ carbon không chỉ là một đơn vị giảm phát thải được tiêu chuẩn hóa, mà còn là tài sản hữu hình của doanh nghiệp, một động lực tài chính:
Khen thưởng người đi đầu: Những doanh nghiệp tiên phong và tự nguyện trong việc áp dụng công nghệ sạch, giảm phát thải hiệu quả sẽ tạo ra kết quả giảm hoặc loại bỏ phát thải có thể được quy đổi ra tín chỉ carbon để bán cho người mua thông qua thị trường carbon. Doanh thu từ việc bán tín chỉ trở thành một nguồn thu bổ sung, điều này góp phần khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các giải pháp giảm hoặc loại bỏ phát thải. Những mô hình này chúng ta có thể thấy được khi nhiều dự án thủy điện, điện gió trên bờ, điện mặt trời ở Việt Nam khi còn đáp ứng được yêu cầu về thực hành chung (công nghệ chưa phổ biến) và tính bổ sung (cần có hỗ trợ tài chính) đã đăng ký theo nhiều Cơ chế, Tiêu chuẩn tín chỉ carbon khác nhau, ví dụ: Cơ chế phát triển sạch (CDM), Tiêu chuẩn Vàng (GS), Tiêu chuẩn carbon thẩm tra (VCS), Hội đồng carbon Toàn cầu (GCC)…
Thúc đẩy đầu tư vào các dự án xanh/dự án khí hậu: Đối với hầu hết thị trường carbon tuân thủ, hàng hóa giao dịch chính là hạn ngạch phát thải. Vậy nên việc cho phép doanh nghiệp sử dụng tín chỉ carbon với tỷ lệ phần trăm nhất định để tuân thủ số lượng hạn ngạch phát thải được phân bổ sẽ tạo ra thị trường cho các dự án giúp giảm, loại bỏ phát thải. Các dự án này có thể tạo ra tín chỉ carbon và bán cho các doanh nghiệp mua để bù đắp cho số lượng hạn ngạch phát thải bị thiếu, qua đó thu hút dòng vốn đầu tư xanh cho phát triển bền vững. Chúng ta có thể thấy điều này thông qua các dự án thu hồi mê tan tạo năng lượng, bếp đun củi cải tiến, xe máy điện, … ở Việt Nam và đã được đăng ký theo GS và VCS.
Thúc đẩy phát triển bền vững
Bên cạnh giảm/loại bỏ phát thải được quy đổi và chứng nhận dưới hình thức tín chỉ carbon, các dự án tạo ra tín chỉ carbon cũng có thể tạo ra đồng lợi ích cho môi trường và cộng đồng, chẳng hạn như bảo tồn đa dạng sinh học, cải thiện chất lượng không khí và nước, cải thiện sức khỏe đất, giảm chi phí xã hội về sức khỏe.
Hơn nữa, các tiêu chuẩn/cơ chế tín chỉ carbon hiện này hâu hết đều yêu cầu các dự án đăng ký và ban hành tín chỉ carbon thực hành bền vững phù hợp với các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc.
Vì vậy, với việc thúc đẩy các dự án xanh, dự án khí hậu thông qua cơ chế tín chỉ carbon cũng sẽ thúc đẩy phát triển bền vững và mang lại lợi ích bao trùm cho cộng đồng và xã hội. Ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy các đồng lợi ích thông qua các dự án được triển khai theo phương pháp luận Giảm phát thải từ nạn phá rừng và suy thoái rừng, và vai trò của bảo tồn, quản lý bền vững rừng và tăng cường trữ lượng carbon rừng ở các nước đang phát triển (REDD+).
Cụ thể là Chương trình chi trả dịch vụ giảm phát thải khí nhà kính (ERPA) vùng Bắc Trung Bộ thông qua hợp tác giữa Bộ Nông nghiệp và Môi trường với Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế (IBRD) thuộc nhóm Ngân hàng Thế giới - WB với tư cách là bên nhận ủy thác của Quỹ Đối tác Carbon trong Lâm nghiệp (FCPF), tiếp đến là Thỏa thuận mua bán giảm phát thải vùng Tây Nguyên và Nam Trung Bộ giữ Bộ Nông nghiệp và Môi trường với với Liên minh LEAF/Emergent.
Thời gian tới đây, chúng ta sẽ tiếp tục thấy được những giá trị đồng lợi ích này được ghi nhận ở các dự án nông nghiệp phát thải carbon thấp ở Việt Nam, ví dụ: Chương trình Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao và phát thải thấp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
3. Thách thức và yêu cầu đối với hệ thống tín chỉ carbon
Để tín chỉ carbon thực sự phát huy vai trò, thị trường carbon bắt buộc ở Việt Nam cần phải đối mặt và giải quyết các thách thức lớn:
Tính minh bạch và toàn vẹn: Hệ thống Đo đạc - Báo cáo - Thẩm định (MRV) phải cực kỳ chặt chẽ, đáng tin cậy để đảm bảo mỗi tín chỉ thực sự đại diện cho một tấn CO2 đã được giảm hoặc loại bỏ. Bất kỳ sự gian lận hay tính toán sai lệch nào cũng sẽ làm xói mòn niềm tin và phá vỡ thị trường.
Biến động giá: Giá tín chỉ carbon có thể biến động mạnh do thay đổi chính sách, tình hình kinh tế... Điều này gây khó khăn cho việc lập kế hoạch đầu tư dài hạn của doanh nghiệp.
Nguy cơ "rò rỉ carbon": Doanh nghiệp có thể di dời cơ sở sản xuất, hoạt động sản xuất phát thải thâm dụng carbon sang quốc gia, khu vực, vị trí khác không áp dụng định giá carbon để trốn tránh chi phí, khiến tổng phát thải toàn cầu không giảm. Đồng thời điều này giúp họ thu được tín chỉ carbon từ những hành động giảm hoặc loại bỏ phát thải đáng lý là hành động tuân thủ thay vì là tự nguyện áp dụng.
Theo lộ trình được quy định tại Quyết định 232/2025/QĐ-TTg và Nghị định 119/2025/NĐ-CP, Việt Nam dự kiến vận hành thí điểm thị trường carbon từ năm 2025 và vận hành chính thức từ 2029.
Việc xây dựng cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong nước minh bạch, hiệu quả là nhiệm vụ trọng tâm để hiện thực hóa thị trường này.
Vì vậy, trong thời gian tới đây, Việt Nam sẽ từng bước hoàn thiện khung thể chế và pháp lý cũng như hạ tầng kỹ thuật để chuẩn bị cho vận hành thị trường carbon được thông suốt và hiệu quả.
Đối với tín chỉ carbon, một cơ chế tín chỉ carbon nội địa sẽ được phát triển để thúc đẩy hơn nữa các dự án, sáng kiến khí hậu giúp giảm hoặc loại bỏ khí nhà kính không phù hợp hay khả thi để đăng ký và ban hành tín chỉ carbon theo Cơ chế/Tiêu chuẩn tự nguyện quốc tế có thể tham gia thị trường carbon trong nước.
Theo sau đó, các phương pháp luận áp dụng, hệ thống giám sát, báo cáo và thẩm tra (MRV) với sự tham gia của nhiều bên liên quan cũng cần được hình thành và hoàn thiện nhằm đảm bảo sự nhất quán, toàn diện, minh bạch và tin cậy của tín chỉ carbon nói riêng và thị trường carbon.
Ngoài ra, để giải quyết tính biến động và bất định cao xét về khía cạnh giá thị trường của tín chỉ carbon như chúng ta đã và đang thấy được trên thị trường carbon bắt buộc và tự nguyện quốc tế, Việt Nam cần xây dựng cơ chế kiểm soát giá đối với hạn ngạch phát thải để tránh tình trạng biến động trạng thái quá mạnh mẽ dẫn tới cản trở và không thúc đẩy sự tham gia của doanh nghiệp đầu tư vào các dự án cắt giảm hoặc loại bỏ khí thải.
Tín chỉ carbon không phải là "viên đạn bạc" giải quyết mọi vấn đề biến đổi khí hậu, nhưng nó là công cụ kinh tế không thể thiếu trong định giá carbon. Nó biến trách nhiệm môi trường thành một bài toán kinh tế, nơi giảm phát thải không chỉ là nghĩa vụ mà còn là cơ hội.
Khi được vận hành đúng đắn, tín chỉ carbon sẽ là xương sống giúp thị trường carbon bắt buộc của Việt Nam hoạt động hiệu quả và linh hoạt, đóng góp trực tiếp vào mục tiêu Net Zero 2050. Không dừng ở đó, với việc triển khai nhiều dự án giúp giảm hoặc loại bỏ phát thải sẽ đóng góp vào mục tiêu và củng cố hơn nữa con đường phát triển bền vững của đất nước trong thời gian tới đây.