Ông Phạm Nam Hưng (Bộ Nông nghiệp - Môi trường) cho rằng cần nhanh chóng thành lập sàn giao dịch carbon trong nước, cho phép giao dịch tín chỉ và hạn ngạch phát thải, đồng thời xây dựng hệ thống đăng ký quốc gia
Sáng 27.5, Học viện Ngân hàng phối hợp cùng Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu và Tạp chí Doanh nghiệp và Kinh tế xanh tổ chức hội thảo “Thúc đẩy tài chính xanh hướng tới mục tiêu Net Zero của Việt Nam”.
Việt Nam cần 360 tỉ USD để đạt phát thải ròng bằng 0
Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp - Môi trường) cho biết: Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu và tất cả các quốc gia trên thế giới đều phải chung tay vì mục tiêu chung. Tại COP26 Việt Nam đã cam kết sẽ đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 với sự hỗ trợ của quốc tế về tài chính và công nghệ.
“Nếu chúng ta không thực hiện cam kết thì sẽ ra khỏi cuộc chơi của thế giới. Việt Nam đã cam kết chuyển đổi năng lượng sạch, năng lượng tiết kiệm, nếu không áp dụng thì không thể cạnh tranh, đặc biệt là các sản phẩm xuất khẩu”, ông Quang nhấn mạnh.
Theo ông Quang, để thực hiện được mục tiêu, một trong những giải pháp quan trọng là chuyển dịch năng lượng từ nâu sang xanh. Tuy nhiên quá trình chuyển dịch không đơn giản, phải mất thời gian, công nghệ, tài chính…
Theo tính toán của Ngân hàng Thế giới, để đạt phát thải ròng bằng 0 thì từ nay đến năm 2040 Việt Nam cần 360 tỉ USD, trong khi GDP khoảng 450 - 500 tỉ USD. Như vậy, số chi phí để chuyển đổi rất lớn, cần huy động cả hệ thống chính trị, tư nhân, các định chế tài chính…
PGS-TS Bùi Hữu Toàn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Ngân hàng nhấn mạnh phát triển xanh không thể được triển khai một cách ồ ạt hay tùy tiện, mà cần có định hướng rõ ràng, cơ sở pháp lý vững chắc và tiêu chí cụ thể để thực hiện.
Ông Toàn chỉ rõ một thực tế đáng quan ngại: Nhiều doanh nghiệp tuy nói theo đuổi mục tiêu “xanh”, nhưng lại không có nguồn vốn xanh để thực hiện, dẫn đến sự thiếu nhất quán giữa tuyên bố và hành động. Điều này, bắt nguồn từ sự thiếu hụt hệ thống tiêu chí đánh giá và xác định “xanh” một cách chính thức, hợp pháp.
Do đó, ông Toàn đề xuất cần xây dựng bộ tiêu chuẩn và tiêu chí rõ ràng để xác định sản phẩm, dịch vụ hay doanh nghiệp “xanh” theo hai hướng tiếp cận. Một là Nhà nước trực tiếp ban hành, điều này giúp tiết kiệm chi phí và tạo sự đồng bộ. Hai là Nhà nước ủy quyền cho các tổ chức công lập hoặc tổ chức đủ năng lực thực hiện việc đánh giá và chứng nhận, dưới sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan quản lý.
"Phát triển xanh là xu hướng tất yếu, không sớm thì muộn doanh nghiệp cũng sẽ phải chuyển đổi. Tuy nhiên, để thúc đẩy quá trình này một cách hiệu quả, vai trò kiến tạo của Nhà nước là vô cùng quan trọng", ông Toàn nói.
Nhanh chóng xây dựng thị trường carbon
Ông Phạm Nam Hưng đại diện Phòng Thị trường carbon (Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Nông nghiệp - Môi trường) cho rằng việc xây dựng và vận hành thị trường carbon tại Việt Nam là yếu tố then chốt để hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050.
Ông Hưng cho biết thị trường carbon thế giới đang dần được thiết lập hoàn chỉnh từ nay đến năm 2050. Tuy nhiên, để hình thành một cơ chế vận hành hiệu quả không hề đơn giản.
Dẫn chứng từ cơ chế hợp tác trong Thỏa thuận Paris, ông Hưng cho biết quá trình đàm phán và hoàn thiện khung cơ chế hợp tác, thị trường carbon đã kéo dài tới hơn 10 năm (từ 2015 đến năm 2024), cho thấy mức độ phức tạp và yêu cầu kỹ thuật cao của thị trường này.
Tại Việt Nam, các bước chuẩn bị đã được triển khai tích cực. Nghị định 06/2022/NĐ-CP được ban hành, xác định rõ các đối tượng có trách nhiệm kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính.
Theo đó, đến cuối năm 2023, đã có 2.166 doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc thực hiện kiểm kê khí nhà kính, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc tham gia vào mục tiêu chung về giảm phát thải.
Ông Hưng cho hay thị trường được chia thành hai nhóm: thị trường tuân thủ (như hệ thống trao đổi hạn ngạch phát thải khí nhà kính – ETS) và thị trường tự nguyện (bao gồm các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ trong nước và quốc tế, trong đó có cơ chế theo điều 6 của Thỏa thuận Paris).
Để thị trường này vận hành hiệu quả, theo ông Hưng, cần nhanh chóng thành lập sàn giao dịch carbon trong nước, cho phép giao dịch tín chỉ và hạn ngạch phát thải, đồng thời xây dựng hệ thống đăng ký quốc gia do Bộ Tài nguyên - Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp - Môi trường) quản lý.
Song song với đó là việc hoàn thiện cơ sở đo lường, tiêu chuẩn minh bạch và hệ thống tín chỉ theo chuẩn quốc tế, những điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể tham gia thị trường toàn cầu và tiếp cận tài chính xanh.
Ông Hưng cảnh báo, nếu không kịp thời hoàn thiện cơ chế này, việc đạt được các mục tiêu Net Zero và phát triển kinh tế đạt mức 2 con số sẽ gặp nhiều trở ngại.
Theo ông Hưng, lộ trình phát triển thị trường carbon tại Việt Nam gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 2015-2027: Chuẩn bị và thí điểm, tập trung vào hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng cơ sở hạ tầng, vận hành sàn giao dịch thí điểm và nâng cao nhận thức, năng lực.
Giai đoạn 2028: Vận hành chính thức sàn giao dịch carbon trong nước, mở rộng thị trường ETS, bổ sung các loại tín chỉ và đối tượng tham gia giao dịch.
Sau năm 2030: Mở rộng và kết nối thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, hướng đến tích hợp toàn diện với hệ sinh thái tài chính khí hậu toàn cầu.
"Để thị trường carbon hoạt động hiệu quả và bền vững, cần có sự tham gia và ủng hộ mạnh mẽ của toàn xã hội, từ cơ quan quản lý, doanh nghiệp đến cộng đồng, cùng chung tay hiện thực hóa các cam kết khí hậu và xây dựng một nền kinh tế xanh, phát triển bền vững", ông Hưng khẳng định.