Theo TS Nguyễn Đình Dũng (Học viện Tài chính), ngân hàng là lĩnh vực có chuyển biến rất mạnh trong chuyển đổi số quốc gia. Điều này đã thay đổi lớn trải nghiệm của khách hàng cũng như hoạt động của các ngân hàng.
Kinh tế số

TS Nguyễn Đình Dũng: Nhiều thuận lợi trong phát triển ngân hàng số tại Việt Nam

Trí Lâm (thực hiện) 04/05/2025 19:08

Theo TS Nguyễn Đình Dũng (Học viện Tài chính), ngân hàng là lĩnh vực có chuyển biến rất mạnh trong chuyển đổi số quốc gia. Điều này đã thay đổi lớn trải nghiệm của khách hàng cũng như hoạt động của các ngân hàng.

Sự bùng nổ của ngân hàng số đang mở ra một kỷ nguyên mới cho ngành tài chính - ngân hàng tại Việt Nam, nơi mà chỉ một chiếc điện thoại thông minh cũng đủ thay thế cho nhiều khâu tại quầy giao dịch truyền thống. Tuy nhiên, còn khá nhiều việc phải làm để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngân hàng số tại Việt Nam.

Phóng viên Một Thế Giới đã có cuộc trao đổi với TS Nguyễn Đình Dũng (Học viện Tài chính) quanh vấn đề này.

- Tài chính - ngân hàng được cho là lĩnh vực có tốc độ chuyển đổi số tốp đầu tại Việt Nam, trong đó nổi bật là xu hướng ngân hàng số đang rất mạnh mẽ. Ông nghĩ sao về điều này?

- TS Nguyễn Đình Dũng: Tôi đồng tình với nhận định này. Ngành ngân hàng thế giới đã chứng kiến 2 xu hướng phát triển chính. Thứ nhất là chuyển đổi số của hệ thống ngân hàng truyền thống thông qua phát triển ngân hàng số (digital banking) và kết nối chia sẻ dữ liệu qua sáng kiến ngân hàng mở (open banking). Thứ hai là sự tham gia của các công ty fintech, bigtech vào một phần hoạt động ngân hàng - tài chính. Đi cùng với xu hướng chuyển đổi số trên toàn cầu, xu hướng phát triển ngân hàng số tại Việt Nam hiện nay rất mạnh mẽ.

Để thực hiện chiến lược số hóa nền kinh tế, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành các chính sách để thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực này và các ngân hàng thương mại cũng tích cực đẩy mạnh, liên tục tung ra các sản phẩm ngân hàng số.

nhs-1.jpg
Chuyển đổi số ngành ngân hàng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ

Trước đây để sử dụng các sản phẩm của ngân hàng, khách hàng phải mất thời gian đến tận chi nhánh ngân hàng để thực hiện. Tuy nhiên, với ngân hàng số, khách hàng có thể ngồi ở nhà, chỉ với điện thoại thông minh kết nối internet thì có thể thực hiện được rất nhiều dịch vụ. Còn đối với ngân hàng, việc đẩy mạnh ngân hàng số cũng là “cuộc cạnh tranh” khốc liệt để thu hút khách hàng.

- Vậy nói nôm na, theo ông thế nào là ngân hàng số? Thực trạng phát triển sản phẩm ngân hàng số tại Việt Nam hiện nay thế nào? Thưa ông?

- TS Nguyễn Đình Dũng: Có thể hiểu đơn giản rằng, ngân hàng số là hình thức số hóa các hoạt động, dịch vụ của ngân hàng. Các thao tác được thực hiện ở các quầy giao dịch như trước kia được tích hợp vào ứng dụng số. Khi đó, khách hàng không cần phải di chuyển ra ngân hàng nhưng hoàn toàn có thể thực hiện được các giao dịch.

Ví dụ, với ngân hàng số, khách hàng dễ dàng thanh toán các chi phí như tiền điện, tiền nước, cước viễn thông, hóa đơn mua hàng... nhanh chóng. Người dùng hoàn toàn có thể thực hiện thanh toán một lần hoặc định kỳ, đồng thời, đặt lịch hẹn thanh toán hóa đơn tự động hằng tháng trên ứng dụng di động. Nhờ vậy, dù bận bịu như thế nào, bạn cũng có thể yên tâm rằng mình luôn chi trả mọi hóa đơn đúng hạn.

Ngân hàng số không chỉ cho phép khách hàng chuyển tiền nội bộ hoặc chuyển tiền liên ngân hàng nhanh chóng, tiện lợi, mà còn giúp khách hàng không cần tới quầy giao dịch để làm thủ tục vay ngân hàng trên giấy tờ nữa mà thay vào đó là một vài thao tác đơn giản trên website hoặc ứng dụng của ngân hàng.

Ngân hàng số cũng hỗ trợ mở tài khoản giao dịch chứng khoán trực tuyến để bạn có thể tham gia đầu tư chứng khoán, hỗ trợ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và theo dõi sự biến động của các sàn chứng khoán; quản lý tài chính cá nhân và doanh nghiệp khi mọi giao dịch đã thực hiện đều được ghi lại trong mục tài khoản cùng số tiền hiện có, giúp khách hàng dễ dàng theo dõi chi tiêu và tài sản của mình…

Qua đó, các hệ sinh thái ngân hàng cũng dần hình thành. Một số ngân hàng kết nối cung cấp dịch vụ công mức độ 4 với Cổng dịch vụ công quốc gia, kho bạc nhà nước, bảo hiểm xã hội, bệnh viện, giao thông, cổng thông tin thuế cho nhà cung cấp nước ngoài…; liên tục mở rộng hợp tác kết nối với các trung gian thanh toán, các fintech trên thị trường.

ts-dung.png
TS Nguyễn Đình Dũng (Học viện Tài chính)

Một số ví dụ tiêu biểu cho việc ứng dụng công nghệ số vào hoạt động của ngành ngân hàng có thể kể đến như: Vietcombank ra mắt ứng dụng ngân hàng số Digibank; VietinBank có kế hoạch xây dựng ứng dụng “chatbot” (robot tự động nói chuyện, tương tác với khách hàng) “đa nhiệm” hơn. VietinBank trang bị camera nhận diện, thu thập thông tin, kết hợp với ứng dụng trí tuệ nhân tạo đã giúp rút ngắn thời gian giao dịch, tăng trải nghiệm cho khách hàng. TPBank có hệ thống ngân hàng tự động (LiveBank), các ngân hàng MB, Việt Á, Nam Á... ứng dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ học máy, chatbot... vào hoạt động hỗ trợ giao dịch, tư vấn khách hàng 24/7.

- Như vậy, ngân hàng số với hệ sinh thái đa dạng không chỉ mang đến sự tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả, mà còn góp phần đẩy mạnh xu hướng thanh toán không dùng tiền mặt, thưa ông?

- TS Nguyễn Đình Dũng: Tôi cũng đồng tình như vậy. Chúng ta có thể thấy thanh toán không dùng tiền mặt đạt mức tăng trưởng cao.

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, đến nay, hơn 87% người trưởng thành đã có tài khoản thanh toán tại ngân hàng và nhiều ngân hàng đã có trên 95% số lượng giao dịch được xử lý trên kênh số. Tăng trưởng về số lượng giao dịch thanh toán qua di động (mobile) và QR code bình quân qua các năm từ 2017 - 2023 đạt trên 100%/năm.

Hạ tầng công nghệ ngân hàng thường xuyên được đầu tư nâng cấp, phát triển. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng xử lý bình quân 830 nghìn tỉ đồng/ngày (tương đương 40 tỉ USD), hệ thống chuyển mạch tài chính và bù trừ điện tử xử lý bình quân 20 - 25 triệu giao dịch/ngày.

Với khách hàng, có tới 95% các giao dịch của ngân hàng đã được thực hiện trên kênh số. Đến nay, đã có 90% hồ sơ của ngân hàng đã không sử dụng giấy tờ trong các quy trình nghiệp vụ. Theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước, giá trị thanh toán di động tại Việt Nam dự kiến tăng 4 lần, từ 16 tỉ USD vào năm 2016 lên đến 70,9 tỉ USD vào năm 2025.

- Vậy theo ông, đâu là những thuận lợi trong triển khai ngân hàng số tại Việt Nam?

- TS Nguyễn Đình Dũng: Việt Nam đang đứng trước những cơ hội lớn trong công cuộc chuyển đổi số với hơn 50% dân số sở hữu hơn 130 triệu thuê bao di động, dân số Việt Nam là dân số trẻ, dưới tuổi 35 chiếm hơn 50%, thuê bao internet khoảng 67%, thời gian sử dụng điện thoại thông minh trung bình của người Việt Nam là 2 giờ/ngày; tăng trưởng thương mại điện tử đạt tốc độ 30%/năm. Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới. Người dân Việt Nam cũng sẵn sàng tiếp cận công nghệ, nhạy bén với các dịch vụ mới…

ngan-hang-so-16105995227221249560434-1611376827060506043461.png
Nhiều thuận lợi trong phát triển ngân hàng số tại Việt Nam

Điều này đã tạo nên những tiền đề cho việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động, dịch vụ cũng như quản lý của ngành ngân hàng nói riêng và của các ngành nghề khác trong nền kinh tế nói chung.

Thêm nữa, hành lang pháp lý đối với ngân hàng số cũng đang dần được hoàn thiện, nhiều cơ chế thử nghiệm chuẩn bị được thực hiện là tín hiệu đáng mừng để thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này. Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng đưa ra lộ trình, tiêu chí khá cụ thể về số hóa trong lĩnh vực ngân hàng.

Ngoài ra, sự thay đổi thói quen tiêu dùng và yêu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như sự phát triển mạnh mẽ của fintech cũng tạo sức ép khiến các ngân hàng phải nhanh chóng thay đổi để đáp ứng xu thế mới.

- Như vậy sự phát triển của fintech cũng tăng áp lực chuyển đổi số đối với các ngân hàng, thưa ông?

- TS Nguyễn Đình Dũng: Muốn chuyển đổi số lĩnh vực ngân hàng được thì cần có sự đồng hành của các công ty fintech. Tôi cho rằng các fintech vừa là động lực, vừa là áp lực đối với các ngân hàng, đặc biệt trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay.

- Vậy theo ông, những thách thức nào phải đối mặt trong việc đẩy mạnh ngân hàng số?

- TS Nguyễn Đình Dũng: Tôi cho rằng vấn đề cần quan tâm là sự liên thông giữa các ngân hàng. Dù chuyển đổi số là xu hướng chung nhưng định hướng phát triển của từng ngân hàng lại khác nhau, phát triển một cách đơn lẻ, chưa có sự kết hợp, chia sẻ để cùng phát triển.

Một vấn đề rất đáng chú ý là vấn đề bảo mật, an ninh mạng, đặc biệt trong bối cảnh các cuộc tấn công mạng diễn ra ngày càng nhiều như hiện nay. Nhất là xu hướng Open Banking, trong đó các ngân hàng hợp tác với fintech như hiện nay và các fintech sẽ được tiếp cận và sử dụng các nguồn dữ liệu của ngân hàng.

chuyen-doi-so-ngan-hang31.png
Việt Nam có tốc độ chuyển đổi số ngân hàng nhanh nhất khu vực

Ngoài ra, hành lang pháp lý đối với lĩnh vực này dù đang được đẩy mạnh nhưng còn chưa hoàn thiện cho các dịch vụ số mới (ví dụ như blockchain, big data, cloud, OpenAPI…). Các quy định trong các luật khác nhau vẫn còn những mâu thuẫn, vướng mắc… Thêm nữa, Việt Nam cũng cần đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cũng như định danh cá nhân.

- Xin ông gợi ý một số giải pháp để thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng số tại Việt Nam.

- TS Nguyễn Đình Dũng: Theo tôi, cần hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về định danh cá nhân, đây là nền tảng quan trọng hỗ trợ cho quá trình chuyển đổi số sản phẩm dịch vụ của hệ thống ngân hàng.

Bài học từ Ấn Độ với đạo luật Aadhaar năm 2016 đã góp phần xây dựng được cơ sở dữ liệu công dân tập trung, nhờ đó, quy trình nhận biết và xác minh thông tin khách hàng (KYC) tại Ấn Độ có cơ sở để số hóa và chuyển thành KYC điện tử (eKYC).

Do đó, Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng và phát triển hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về định danh cá nhân và cơ chế chia sẻ thông tin để góp phần thúc đẩy kinh tế số, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng số và các dịch vụ tài chính, ngân hàng hiện đại đến tay người tiêu dùng mà không phụ thuộc vào khoảng cách không gian.

Thêm nữa, cần đẩy mạnh các chương trình hỗ trợ nghiên cứu phát triển cho các nhà nghiên cứu, công ty công nghệ tài chính. Chính phủ và các tổ chức tín dụng cần tạo điều kiện và/hoặc hình thành các chương trình vườn ươm dành cho các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực fintech; khuyến khích hình thành và kêu gọi sự đầu tư của các quỹ đầu tư khởi nghiệp trong nước và quốc tế…

Việc tăng cường truyền thông về công nghệ số trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như thanh toán không dùng tiền mặt, các vấn đề sở hữu dữ liệu, rủi ro... cũng rất quan trọng. Điều này cần hướng đến hai mục tiêu chính là định hướng người dân sử dụng các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng mới và nâng cao hiểu biết tài chính của người dân, tránh các mô hình tín dụng đen, mô hình lừa đảo.

Tiếp theo, cần xây dựng quy định về bảo vệ dữ liệu người dùng, định danh số; hoàn thiện quy định bảo mật giao dịch, an ninh thông tin; xây dựng quy trình quản lý, kiểm soát, đánh giá rủi ro, ngăn chặn các hành vi mạo danh, can thiệp, chỉnh sửa; tập trung phát triển các loại hình dịch vụ ngân hàng số phù hợp với chuẩn mực, thông lệ quốc tế…

- Xin cảm ơn ông!

Bài liên quan
Chuyển đổi số ngân hàng: Hành trình kiến tạo hệ sinh thái tài chính thông minh
Ngành ngân hàng Việt Nam đang viết chương mới trong hành trình chuyển đổi số, từ nền tảng định danh số đến các giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt và hệ sinh thái tài chính thông minh.

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Nâng tầm quan hệ hợp tác báo chí Việt Nam - Cuba
8 giờ trước Sự kiện
Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21.6.1925-21.6.2025) và trong khuôn khổ năm Hữu nghị Việt Nam – Cuba, kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước (2.12.1960-2.12.2025), ngày 6.6, tại Hà Nội, Đại sứ quán nước Cộng hòa Cuba tại Việt Nam phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức cuộc gặp mặt các cán bộ, nhà báo của Việt Nam từng học tập hoặc công tác tại Cuba.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
TS Nguyễn Đình Dũng: Nhiều thuận lợi trong phát triển ngân hàng số tại Việt Nam