Việt Nam có tiềm năng lớn về tín chỉ carbon, tuy nhiên, để tín chỉ carbon có thể trở thành tài sản bảo đảm trong các giao dịch tín dụng, vẫn còn nhiều rào cản cần tháo gỡ.
Việt Nam có nhiều lợi thế để phát triển tín chỉ carbon. Theo các phân tích định lượng, nếu tận dụng hiệu quả nguồn cung từ các lĩnh vực này, Việt Nam có thể đạt giá trị giao dịch tín chỉ carbon khoảng 300 triệu USD mỗi năm.
Theo các chuyên gia, trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước xây dựng thị trường tín chỉ carbon nhằm hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, một trong những nội dung quan trọng cần được quan tâm là việc định danh và sử dụng tín chỉ carbon như một loại tài sản bảo đảm trong các giao dịch tài chính. Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn liên quan chặt chẽ đến khung pháp lý, cơ sở hạ tầng giao dịch và niềm tin thị trường.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 số 72/2020/QH14 xác định: tín chỉ carbon là chứng nhận có thể giao dịch, thể hiện quyền phát thải một tấn CO₂ hoặc tương đương.
Mặc dù đã bước đầu được thừa nhận về mặt thương mại, nhưng tín chỉ carbon hiện vẫn chưa được pháp luật Việt Nam ghi nhận cụ thể là tài sản bảo đảm trong giao dịch tín dụng ngân hàng.
Trao đổi với phóng viên Một Thế Giới, TS Phạm Đức Anh, Phó trưởng phòng Nghiên cứu khoa học, Viện Nghiên cứu khoa học ngân hàng cũng cho rằng Việt Nam hoàn toàn có khả năng phát triển một thị trường tín chỉ carbon. Nếu xây dựng được hành lang pháp lý minh bạch và toàn diện cho việc sử dụng tín chỉ carbon làm tài sản bảo đảm, Việt Nam sẽ có thêm một nguồn lực tài chính quan trọng cho phát triển bền vững.
Tuy nhiên, ông Phạm Đức Anh cũng cho rằng Việt Nam hiện vẫn còn thiếu cơ sở hạ tầng phù hợp cho thị trường carbon, đặc biệt là các hệ thống đăng ký, giao dịch và giám sát minh bạch.
Ngoài ra, nhận thức và năng lực của nhiều doanh nghiệp về tín chỉ carbon còn hạn chế; còn có những rủi ro từ biến động giá cả quốc tế có thể ảnh hưởng đến giá trị của tín chỉ carbon khi làm tài sản bảo đảm.
Ông Đỗ Giang Nam - thành viên HĐTV Công ty TNHH một thành viên Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng - cho biết khi ngân hàng nhận tài sản này cũng cần phải đánh giá tính rủi ro, nhất là rủi ro về giá là rất lớn.
“Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2028 sẽ hình thành đầy đủ thị trường giao dịch tín chỉ carbon. Đây là điều kiện cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng có các biện pháp xử lý nợ liên quan tín chỉ carbon. Dưới góc độ ngân hàng, tôi cho rằng đây là một loại tài sản bảo đảm tiềm năng. Các ngân hàng sẽ nhận khi loại tài sản này đáp ứng đầy đủ điều kiện về pháp lý cũng như tính ổn định về giá”, ông Nam nói.
Theo bà Vũ Thị Vân Anh, Trưởng phòng cao cấp Khối ESG, Công ty KPMG Việt Nam, tại Thái Lan tín chỉ carbon có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm trong các khoản vay, đặc biệt là các dự án đầu tư thích ứng với biến đổi khí hậu, cung cấp một cách đo lường và quản lý rủi ro liên quan đến khí hậu.
Một số quốc gia thành viên Liên minh châu Âu (EU) đã phân loại EUA (chứng chỉ phát thải của EU) là tài sản vô hình có thể chuyển nhượng, cho phép sử dụng nó làm tài sản thế chấp hoặc tài sản bảo đảm trong các giao dịch tài chính.
Tại một hội thảo mới đây, bà Trương Hạnh Linh, thành viên điều hành Công ty TNHH Thuế và tư vấn KPMG Việt Nam cho rằng để tín chỉ carbon có thể trở thành tài sản đảm bảo, cần có cơ chế pháp lý rõ ràng.
Cụ thể, sự công nhận tín chỉ carbon là tài sản và phải định nghĩa rõ ràng là một loại “tài sản” hay “quyền tài sản” trong Bộ luật Dân sự; có thể định giá, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, tương tự cổ phiếu, trái phiếu.
Quy định về thế chấp, xử lý khi bên vay mất khả năng thanh toán, hướng dẫn cơ chế định giá và có bảng giá giao dịch tín chỉ carbon cập nhật thường xuyên, được chấp nhận bởi cơ quan quản lý nhà nước hoặc sàn giao dịch. Việt Nam đã có Nghị định 06/2022/NĐ-CP về giảm phát thải và phát triển thị trường carbon, tuy nhiên cần có thêm các văn bản hướng dẫn cụ thể về giao dịch, mua bán, thế chấp tín chỉ.
Ngoài ra, cần có hướng dẫn chuẩn hóa tín chỉ đủ điều kiện đảm bảo, chẳng hạn chỉ những tín chỉ carbon được chứng nhận bởi các tiêu chuẩn quốc tế (Verra, Gold Standard…) hoặc cơ quan được ủy quyền tại Việt Nam, có nguồn gốc rõ ràng, không trùng lặp và đã được kiểm toán/giám định mới có thể trở thành tài sản đảm bảo.
Tiếp theo, bà Linh cũng cho rằng cần xây dựng hạ tầng kỹ thuật để quản lý và giám sát về “tín chỉ carbon” trong đó đầu tiên phải hướng tới hoàn thiện triển khai sàn giao dịch carbon quốc gia với hệ thống thanh toán – bù trừ – lưu ký tín chỉ, tích hợp dữ liệu phát thải từ doanh nghiệp và kết nối với thị trường carbon quốc tế.
Ngoài ra là việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tín chỉ carbon ghi nhận nguồn gốc tín chỉ và đơn vị sở hữu cũng như trạng thái tín chỉ (chưa sử dụng, đã giao dịch, đã bù trừ…).
Bên cạnh đó, các ngân hàng và định chế tài chính cần nâng cao năng lực xây dựng và quản lý các sản phầm tài chính bền vững, triển khai quy trình nghiệp vụ thẩm định và quản lý tín chỉ carbon làm tài sản đảm bảo kèm theo các công tác theo dõi và xử lý tín chỉ carbon khi nợ xấu xảy ra.