Cà phê Một thế giới

Tiến sĩ Nguyễn Quân: ‘Nhà khoa học đi mua rơm rạ của nông dân thì lấy đâu ra hóa đơn chứng từ?’

Lê Minh Đức; Video, ảnh: Hà Tuấn 28/07/2025 17:42

Trong cuộc trò chuyện với “Cà phê Một thế giới”, TS Nguyễn Quân - Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện là Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam tỏ ra rất trăn trở với điểm nghẽn về cơ chế tài chính đã kìm hãm sự phát triển của khoa học công nghệ (KHCN) Việt Nam: “Nếu tháo gỡ được điểm nghẽn về tài chính thì các điểm nghẽn khác sẽ tự được tháo gỡ”, TS Nguyễn Quân nhấn mạnh.

1. Anh Cover
1. Anh Cover

Trong cuộc trò chuyện với “Cà phê Một Thế Giới, TS Nguyễn Quân - Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, hiện là Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam - bày tỏ nỗi trăn trở về những điểm nghẽn cơ chế tài chính đang kìm hãm sự phát triển của khoa học công nghệ (KHCN) nước nhà. “Nếu tháo gỡ được điểm nghẽn về tài chính thì các điểm nghẽn khác sẽ tự được tháo gỡ”, TS Nguyễn Quân nhấn mạnh.

- Xin ông cho biết những thành tựu KHCN nổi bật của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới?

- TS Nguyễn Quân: Theo tôi, thành tựu đầu tiên và quan trọng nhất là Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động KHCN. Hàng loạt bộ luật rất quan trọng đã ra đời, ví dụ như Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, tạo điều kiện cho Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Luật Năng lượng nguyên tử 2009, tạo tiền đề để chúng ta có thể phê duyệt dự án Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của Việt Nam tại Ninh Thuận. Nếu không có các đạo luật này thì chắc chắn quá trình hội nhập quốc tế cũng như là tiếp nhận công nghệ cao của Việt Nam sẽ rất khó khăn. Đến giờ, Việt Nam đã có một hệ thống luật về KHCN tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ, bao gồm: Luật KHCN, Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa, Luật Công nghệ cao và các luật chuyên ngành như năng lượng nguyên tử…

2.-anh-2-1.png

Thành tựu thứ 2 là chúng ta đã tập trung xây dựng và đầu tư cho các chương trình KHCN quốc gia. Các chương trình này đã tạo ra được rất nhiều sản phẩm KHCN phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những người làm KHCN của Việt Nam trong thời gian qua cũng đã rất nỗ lực để thực hiện các đề tài, dự án KHCN ở trình độ khu vực, có một số sản phẩm đạt trình độ quốc tế.

Thành tựu thứ 3 là chúng ta đã xây dựng được một nền KHCN tiên tiến và đa dạng với sự tham gia không chỉ của khu vực nhà nước mà còn cả khu vực tư nhân. Với luật KHCN năm 2000 và trước đó có Nghị định 35 của Hội đồng Bộ trưởng, chúng ta cũng đã cho phép tư nhân được thành lập các tổ chức KHCN, được tham gia vào các chương trình KHCN của nhà nước. Việt Nam đã có một hệ thống các tổ chức KHCN trong và ngoài công lập tương đối mạnh, huy động được nguồn lực của toàn xã hội cho hoạt động KHCN, đặc biệt nguồn lực các nhà khoa học từ các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Chúng ta đã giao cho các nhà khoa học khu vực công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm để có thể phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động KHCN.

Thành tựu thứ 4 tôi cho là Việt Nam đã thể chế hóa được các nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực KHCN, để KHCN thực sự là quốc sách hàng đầu, được toàn hệ thống chính trị quan tâm, thúc đẩy hoạt động KHCN. Trước đây chúng ta có Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, sau đó chúng ta có Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 6 BCH Trung ương Đảng khóa XI về phát triển KHCN. KHCN Việt Nam đã hội nhập với thế giới theo hai quan điểm: (i) Phải tuân thủ những quy luật của kinh tế thị trường; (ii) Phải tiệm cận với các thông lệ quốc tế, để nền KHCN Việt Nam có khả năng hội nhập thành công vào thế giới. Chúng ta tiếp thu và làm chủ công nghệ cũng như học tập kinh nghiệm của các nước phát triển để có một nền KHCN tương đối toàn diện.

- Lúc này, Đảng và Nhà nước ta đang có chính sách thu hút 100 chuyên gia hàng đầu từ khắp nơi trên thế giới về làm việc tại Việt Nam. Đây chắc chắn là một chủ trương đúng. Nhưng quan trọng là làm sao để chính sách này thành công, thưa ông?

3.-anh-3.png

- TS Nguyễn Quân: Đảng và Nhà nước đã coi KHCN là một khâu đột phá rất quan trọng để phát triển đất nước. Nhưng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay vẫn chưa được như mong muốn. Vì thế, phải tận dụng nguồn nhân lực KHCN của thế giới, trong đó có cả những nhà KHCN Việt Nam đang rất thành công và thành danh ở nước ngoài.

Để chính sách này thành công, sử dụng nguồn nhân lực kể trên một cách hiệu quả nhất, Việt Nam không nên chỉ thu hút họ chỉ bằng sự đãi ngộ về mặt vật chất; mà phải tạo ra một môi trường học thuật theo đúng chuẩn mực quốc tế cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho những người làm khoa học. Họ phải có tự do sáng tạo, được tin tưởng giao nhiệm vụ; phải có những đồng nghiệp có cùng trình độ, cùng chí hướng, cùng tâm huyết; phải được quyền tự chủ rất cao trong hoạt động khoa học… Ví dụ, họ có thể thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh, xây dựng các dự án KHCN theo đặt hàng của Chính phủ; có thể tập hợp được các nhà khoa học trong nước và nước ngoài cùng nhau làm việc; có thể được tham dự các Hội nghị khoa học quốc tế mà không phải làm các thủ tục hành chính quá phiền phức như hiện nay; có thể có các nguồn tài trợ hoặc nguồn kinh phí hỗ trợ của nhà nước để mua được công nghệ, mua thiết kế, mua bằng sáng chế, mua tài liệu khoa học...

Chỉ có như vậy, Việt Nam mới có được một hệ sinh thái để thu hút, giữ chân được những người giỏi, kể cả các nhà khoa học trong nước và các nhà khoa học nước ngoài mà chúng ta mời về. Khi đó, Việt Nam mới có được những sản phẩm khoa học tương xứng với sự đầu tư.

- Theo ông, còn những điểm nghẽn nào đang cản trở sự phát triển của KHCN Việt Nam?

4.-anh-4.png

- TS Nguyễn Quân: Tôi cho rằng cơ chế tài chính cho KHCN là điểm nghẽn lớn nhất. Nếu gỡ được điểm nghẽn về tài chính thì các điểm nghẽn khác sẽ tự được tháo gỡ.

Trong cơ chế tài chính, điểm nghẽn ở đây chính là việc nhiều năm qua chúng ta hành xử với hoạt động KHCN giống như với các hoạt động xây dựng cơ bản. Chúng ta yêu cầu các dự án, đề tài KHCN phải được xây dựng theo kế hoạch, và chỉ được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước nếu như đã được các cấp có thẩm quyền phê duyệt và thuộc danh mục trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm như là các dự án xây dựng cơ bản.

Chính điều này hạn chế rất nhiều tính thời sự, tính đáp ứng cũng như hiệu quả của hoạt động KHCN của các nhà khoa học. Người ta không thể muốn nghiên cứu vấn đề gì đó lại phải chờ đợi hàng năm thậm chí là nhiều năm mới được nhà nước cấp kinh phí, ký hợp đồng.

Cơ chế chi tiêu cũng quá phức tạp, không phù hợp với đặc thù KHCN. Ví dụ các định mức chi quá thấp, kể cả chi cho những hoạt động thông thường nhất như hội nghị, hội thảo khoa học cho tới những mức chi cho chuyên đề nghiên cứu, mức chi cho việc tạo ra những công nghệ mới, sản phẩm mới.

Nội dung chi cũng bị hạn chế, có nhiều nội dung rất cần thiết nhưng lại không được ghi vào danh mục các nội dung chi, nên các nhà khoa học không thể chi cho nội dung đó. Ví dụ như là thuê chuyên gia, hoặc kinh phí dự phòng cho việc lạm phát, trượt giá; hoặc kinh phí dành cho việc mua các kết quả nghiên cứu, sáng chế của nước ngoài, mua công nghệ của nước ngoài…

Thủ tục thanh quyết toán cũng quá phức tạp với các chứng từ, hoá đơn không phù hợp, không hợp lý. Ví dụ như chúng ta đi mua những vật tư của người nông dân như rơm rạ, hay mua sản phẩm phụ trong nông nghiệp thì làm sao có hoá đơn chứng từ (?!). Mà nếu không có hóa đơn chứng từ thì không thanh toán được!

- Vừa qua, Chính phủ ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Theo ông, nghị quyết này có tháo gỡ được điểm nghẽn tài chính, tạo ra động lực phát triển cho KHCN trong thời điểm đất nước chuyển mình?

- TS Nguyễn Quân: Giới khoa học đánh giá rất cao Nghị quyết 57. Trên tinh thần nghị quyết đã tháo gỡ tất cả những vấn đề mà chúng ta vướng mắc về cơ chế tài chính.

Nghị quyết 57 đã khẳng định là nhà nước tài trợ cho hoạt động KHCN thông qua các quỹ phát triển KHCN và theo cơ chế quỹ. Các quỹ này rất chủ động khi các nhà khoa học có nhiệm vụ, có đề tài dự án, lập tức được ký hợp đồng, được cấp kinh phí, cơ chế giải ngân và thanh quyết toán cũng đơn giản hơn.

Ngoài ra, Nghị quyết 57 cũng nói rõ chấp nhận tính mạo hiểm, độ rủi ro, độ trễ trong hoạt động nghiên cứu. Và như thế về mặt tài chính, chúng ta đã tháo gỡ điểm nghẽn rất lớn.

Còn những điểm nghẽn khác, Nghị quyết 57 cũng đã đề cập tới như việc giao quyền tự chủ cho các tổ chức KHCN; việc thực hiện cơ chế khoán chi tới sản phẩm cuối cùng; cho phép các viên chức được thành lập, tham gia điều hành các doanh nghiệp KHCN để có thể thương mại hoá kết quả nghiên cứu của mình.

Làm được những điều này chúng ta sẽ vượt qua được những quy định hiện hành vốn đang cản trở sự phát triển KHCN. Chúng tôi hy vọng Nghị quyết 57 sớm được thể chế hoá và đi vào cuộc sống. Cùng với đó, chúng ta cũng thấy Quốc hội có nghị quyết 193 và vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật KHCN mới với những nội dung đổi mới đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 57. Đó là cơ sở để tin tưởng KHCN Việt Nam trong những năm tới sẽ có những bước phát triển đột phá.

- Như vậy là có thể tin Việt Nam sẽ có những sản phẩm đặc hiệu mang tính toàn cầu, để khi nhắc tới nó là nhắc tới Việt Nam trong những năm tới?

- TS Nguyễn Quân: Trước đây, chúng ta từng có những sản phẩm được thế giới đánh giá rất cao. Trong nông nghiệp, giống lúa của Việt Nam do các nhà khoa học Việt Nam tạo ra đã được Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) nhìn nhận có giá trị rất lớn.

Việt Nam cũng là một trong số ít quốc gia trên thế giới tự chủ được hệ thống vắc-xin tiêm chủng mở rộng cho trẻ em. Trong công nghiệp, Việt Nam cũng sản xuất được các thiết bị siêu trường siêu trọng. Chúng ta tự lực thiết kế, xây dựng nhà máy thuỷ điện Sơn La, Lai Châu, không có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài như thủy điện Hòa Bình.

Trong quốc phòng, hệ thống radar của Viettel, hệ thống tên lửa phòng không, các tầu chiến và tầu hộ vệ tên lửa của Việt Nam cũng đã có thành công bước đầu. Đặc biệt, đã có giai đoạn, ngành đóng tàu Việt Nam có thứ hạng cao trên thế giới với việc đóng được tàu chở dầu 100 nghìn tấn hoặc tàu chở hơn 6 nghìn ô tô do các quốc gia đặt hàng.

Trong ngành dầu khí, Việt Nam đã tự chế tạo được dàn khoan tự nâng 90m nước, 120m nước theo tiêu chuẩn quốc tế, được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao.

Những sản phẩm KHCN kể trên đều rất đáng tự hào, bởi dù sao Việt Nam vẫn là một nước còn kém phát triển, trình độ KHCN còn thấp, nhưng khi được tạo cơ chế thuận lợi, huy động được trí tuệ của các nhà khoa học Việt Nam, chúng ta vẫn có thể làm được những sản phẩm chất lượng.

Tuy nhiên, để có thể tạo ra được những sản phẩm có thương hiệu mang tính toàn cầu, khi nói tới nó là người ta nghĩ ngay tới Việt Nam thì chúng ta còn phải nỗ lực rất nhiều.

Cá nhân tôi tin, nếu chúng ta thực hiện tốt Nghị quyết 57 và thể chế hoá thật tốt bằng hệ thống luật pháp, các văn bản quy phạm pháp luật thì Việt Nam sẽ thành công. Việt Nam là một trong những quốc gia có thế mạnh công nghệ số và sở hữu trí tuệ. Trong cuộc cách mạng KHCN lần thứ 4 với sự phát triển của công nghệ số, chúng ta sẽ có những sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam.

- Từng là người đứng đầu ngành KHCN và hiện là Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam (VAA), ông muốn gửi gắm thông điệp gì cho ngành KHCN Việt Nam thời điểm này?

5.-anh-5.png

- TS Nguyễn Quân: Việt Nam là quốc gia đang có cơ hội phát triển rất tốt, trí tuệ người Việt Nam rất phù hợp với công nghệ số. Tôi rất mong những người làm khoa học ở Việt Nam kiên trì theo đuổi mục tiêu đã đặt ra và đã được Nghị quyết 57 quy định. Đó là hoạt động KHCN phải hướng tới hiệu quả, theo cơ chế Quỹ, thông qua các quỹ phát triển KHCN. Chúng ta phải làm bằng được các sản phẩm công nghệ chiến lược theo quyết định 1131 của Thủ tướng Chính phủ.

Với những nhóm nghiên cứu mạnh, bên cạnh việc tiếp thu công nghệ của nước ngoài, làm chủ công nghệ, chúng ta phải tiến tới sáng tạo ra công nghệ của Việt Nam. Chúng ta cần tập trung vào những việc chúng có thế mạnh hiện nay, đặc biệt là các dự án KHCN lớn, có hàm lượng KHCN cao như điện hạt nhân, đường sắt cao tốc bắc nam hoặc chương trình vi mạch bán dẫn. Những sản phẩm của các dự án lớn này đòi hỏi phải có đội ngũ nhà khoa học rất mạnh; đồng thời phải có sự đầu tư rất lớn của cả nhà nước và doanh nghiệp.

Chúng tôi mong sao sự đầu tư của xã hội, nhất là đầu tư của doanh nghiệp cho KHCN phải nhiều hơn rất nhiều lần so với đầu tư của nhà nước. Khi đó, Việt Nam mới có đủ nguồn lực phát triển KHCN của đất nước, mới thực sự là một quốc gia phát triển, có một nền KHCN tiên tiến đạt trình độ quốc tế.

- Xin cảm ơn về cuộc trò chuyện cởi mở cùng “Cà phê Một Thế Giới”. Xin chúc ông có thật nhiều sức khoẻ để tiếp tục đóng góp cho sự phát triển KHCN Việt Nam trong kỷ nguyên mới của đất nước!

TS Nguyễn Quân đang trò chuyện cùng phóng viên Tạp chí Một Thế Giới
    Nổi bật
        Mới nhất
        Tiến sĩ Nguyễn Quân: ‘Nhà khoa học đi mua rơm rạ của nông dân thì lấy đâu ra hóa đơn chứng từ?’
        • Mặc định

        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO