Hòa giải, hòa hợp dân tộc - chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Góc bình luận - Ngày đăng : 15:19, 25/05/2025

Nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, đa số người Việt Nam ở trong và ngoài nước đã kết nối, đoàn kết với nhau trên tình dân tộc, nghĩa đồng bào, cùng hướng đến mục tiêu cao nhất là lợi ích tối cao của đất nước và dân tộc. Thế nhưng đâu đó vẫn còn những những người, với những giọng điệu đầy hằn học và thiên kiến…
Góc bình luận

Hòa giải, hòa hợp dân tộc - chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Hồng Phúc - Quốc Hùng 25/05/2025 15:19

Nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, đa số người Việt Nam ở trong và ngoài nước đã kết nối, đoàn kết với nhau trên tình dân tộc, nghĩa đồng bào, cùng hướng đến mục tiêu cao nhất là lợi ích tối cao của đất nước và dân tộc. Thế nhưng đâu đó vẫn còn những những người, với những giọng điệu đầy hằn học và thiên kiến…

1. Hòa giải, hòa hợp dân tộc - chủ trương đã có từ trước ngày đất nước thống nhất

Trước khi quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào Sài Gòn, ở khắp mọi nơi đã râm ran về một tin đồn sẽ có "tắm máu" xảy ra, sẽ có "thảm sát". Thế rồi, khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn, đông đảo người dân đã ùa ra đường đón những người chiến thắng trong niềm vui chung hân hoan của cả dân tộc về một đất nước từ nay đã hòa bình, đã im tiếng súng. Sài Gòn đã không hề có bất kỳ cuộc tắm máu nào sau đó như những tin đồn thất thiệt. Chỉ sau vài ngày, mọi sinh hoạt và hoạt động của Thành phố đã trở lại bình thường. Kết quả ấy đã được kết tinh từ cả quá trình lâu dài với những quan điểm xuyên suốt, nhất quán về hòa giải, hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Ngay khi bước vào đàm phán hòa bình ở Hội nghị Paris, hòa giải và hòa hợp dân tộc đã được cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đặt ra như một yêu cầu tiên quyết để giải quyết vấn đề chấm dứt chiến tranh cũng như xây dựng lại sau khi chiến tranh kết thúc.

Ngày 26.6.1968, tại phiên họp lần thứ 10 của Hòa đàm Paris, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định ủng hộ và mong muốn thành lập ở miền Nam Việt Nam một chính phủ liên hiệp dân tộc và dân chủ bao gồm những người tiêu biểu nhất, các lực lượng đã góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc “thực hiện bình đẳng và tương trợ giữa các dân tộc… Hoan nghênh sĩ quan, binh lính ngụy quân và nhân viên công chức ngụy quyền trở về với chính sách; khoan hồng và đối xử nhân đạo với hàng binh và tù binh”.

Ngày 8.5.1969, tại phiên họp lần thứ 19 Hòa đàm Paris, Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Trần Bửu Kiếm đã công bố “Giải pháp hòa bình 10 điểm”, trong đó có nội dung: “Thực hiện việc hòa hợp dân tộc, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân và các đường lối chính trị”.

Ngày 6.6.1969, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Ngày 17.9.1970, Bộ trưởng, Trưởng phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình công bố đề nghi 8 điểm, trong đó có nội dung thành lập Chánh phủ liên hiệp 3 thành phần để “thi hành chánh sách ngoại giao hòa hợp dân tộc”. Tinh thần nhất quán về hòa giải và hòa hợp dân tộc đã được Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam theo đuổi cho tới khi Hiệp định Paris được ký kết.

Trong bản Hiệp định này đã có nhiều điều khoản về hòa giải, hòa hợp dân tộc. Điều 8 của Hiệp định ghi rõ hai bên miền Nam Việt Nam sẽ làm việc “trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc”. Điều 11 khẳng định: “Ngay sau khi ngưng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ: Thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia… ”. Những nội dung về thành lập Hội đồng quốc gia Hòa giải và Hòa hợp dân tộc đã được long trọng ghi tại Điều 12 của Hiệp định.

Tuy nhiên, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã cự tuyệt bằng việc cản trở thành lập Hội đồng quốc gia Hòa giải và Hòa hợp dân tộc cũng như từ chối thành lập chính phủ liên hiệp ba thành phần. Tổng thống chế độ Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu thẳng thừng tuyên bố rằng: “Sẽ không có tổng tuyển cử, sẽ không có chính phủ liên hiệp, sẽ không có ranh giới phân chia vùng kiểm soát; sẽ không có lực lượng thứ ba và không có một Chính phủ cách mạng lâm thời… ”.

Trước thái độ không nghiêm chỉnh thi hành hiệp định, ngày 23.3.1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố: “Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết đã hơn 1 năm, nhưng đến nay ở Việt Nam Cộng hòa, xung đột võ trang còn diễn ra ở nhiều nơi, hòa bình thật sự vẫn chưa được lập lại (…). Cho đến lúc này hơn lúc nào hết đồng bào miền Nam chúng ta rất thiết tha với hòa bình và hòa hợp dân tộc và kiên quyết đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Paris về Việt Nam… long trọng tuyên bố về việc thực hiện hòa bình hòa hợp dân tộc ở miền Nam Việt Nam”.

Khi bị quốc tế lên án là không thực thi nghiêm chỉnh Hiệp định Paris, ông Nguyễn Văn Thiệu đã phát biểu "huỵch toẹt" và tỏ thái độ "hiếu chiến" trong bài phát biểu tại Hội thảo và học tập về Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn ngày 12.11.1974: “Quốc tế bây giờ nói ông Thiệu không thi hành hiệp định Ba Lê…a lê quốc tế dẹp… Ôi đồ ba cái thứ là hội quốc tế này, quốc tế kia đánh điện tôi xé tôi vứt giỏ rác, kể cả Liên hợp quốc chẳng làm cái trò trống gì cho nên hình… ”. Trước tình hình ấy, Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn tiếp tục theo đuổi hòa giải và hòa hợp dân tộc.

2. Chiến thắng 30.4.1975 và những minh chứng đầy thuyết phục về chủ trương, chính sách nhất quán về hòa giải và hòa hợp dân tộc

Ngày 30.4.1975, sau khi tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn là Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng, tối 5.5.1975, tại Dinh Độc lập đã diễn ra buổi lễ trả tự do cho nội các Dương Văn Minh. Tại buổi lễ này, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định Trần Văn Trà đã phát biểu: “Trong cuộc chiến đấu lâu dài này không có ai là kẻ thắng ai là kẻ bại… Toàn quân và toàn dân Việt Nam là người chiến thắng ”. Sau tuyên bố này, vị Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định cũng tuyên bố trả tự do cho toàn bộ 16 thành viên của Chính phủ Dương Văn Minh và cho phép họ được tự do trở về nhà.

Đáp lại tấm chân tình này, ông Dương Văn Minh phát biểu: “…tôi nhiệt liệt hoan nghênh sự thành công của Chính phủ cách mạng trong công cuộc vãn hồi hòa bình cho đất nước. Với kỷ nguyên mới này, tôi mong rằng tất cả anh em có mặt tại đây, cũng như các tầng lớp đồng bào, sẽ có dịp đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước… Hôm nay tôi rất hân hoan khi được 60 tuổi, trở thành một công dân của một nước Việt Nam độc lập”.

Đã không có bất cứ sự trả thù nhằm vào cá nhân nào. Ông Trần Văn Hương, người tiền nhiệm của ông Dương Văn Minh vẫn cư trú tại tư gia cho đến khi qua đời. Ông Dương Văn Minh trở về làm công dân bình thường của một đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất. Ông vẫn sống trong tư dinh của ông. Về cuối đời, Nhà nước cho phép ông sang Pháp chữa bệnh.

Trước khi mất không lâu, ông ngỏ ý muốn về lại sống tại quê nhà. Khi nhận thông tin này, Thành ủy TP.HCM đã chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm tu sửa dinh Hoa Lan của ông để đón ông về. Tuy nhiên, ước nguyện này của ông đã không thực hiện được vì năm 2001 ông sang Mỹ thăm con gái và mất tại đây. Khi ông Dương Văn Minh qua đời, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phan Thúy Thanh đã có phát ngôn với báo chí: “…Gần đây, ông đã đề đạt nguyện vọng được về sống thời gian cuối đời ở trong nước và đã được Nhà nước ta chấp nhận. Tiếc rằng do sức khỏe, ước vọng đó của ông đã không thực hiện được. Chúng ta xin gửi tới gia quyến ông lời chia buồn chân thành”.

Ngày 6.6.1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra tuyên bố nhân dịp giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam với lời kêu gọi: “Đồng bào miền Nam hãy ra sức thực hiện mọi chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng Lâm thời, tăng cường đoàn kết, thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc”.

Nhiều người của chế độ cũ sau đó đã cố gắng hòa nhập cuộc sống mới và đã có nhiều người trở thành đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, công tác trong các cơ quan của hệ thống chính trị. Tất cả những người của chế độ cũ đã trở về với dân tộc, trở về trong lòng dân tộc. Nhiều người, trong đó có những người đã từng đảm nhiệm các cương vị quan trọng trong chế độ cũ đã được chính quyền Việt Nam trọng dụng và sử dụng theo khả năng và sở trường.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, người hai lần làm Quyền Thủ tướng chế độ Sài Gòn đã trở thành cố vấn cho nhiều vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, của TP.HCM như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và ông đã được bầu làm đại biểu Quốc hội. Luật sư Nguyễn Văn Huyền, Chủ tịch đầu tiên của Thượng viện Sài Gòn, Phó tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn đã được mời tham gia Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam với tư cách nhân sỹ tự do và sau đó đã được bầu giữ chức Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam khóa IV cho đến ngày qua đời.

Trong bài viết Bao dung và chung thủy, luật sư Nguyễn Văn Huyền cho biết sau ngày miền Nam giải phóng, khi lòng ông đang trăm mối ngổn ngang thì luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã tìm đến ông, thăm ông và sau đó mời ông tham gia MTTQ Việt Nam. Ông viết: “Tháng 8 năm 1994, trước thềm Đại hội lần thứ 4 MTTQ Việt Nam, anh viết thư mời tôi tham gia Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương. Tôi sẵn sàng nhận lời vì tôi tin rằng những người cách mạng chân chính luôn luôn là những người bao dung và chung thủy”.

Ông Nguyễn Hữu Có là trung tướng của chế độ Sài Gòn, người đã từng đảm nhiệm vị trí Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng của chính quyền Sài Gòn, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Sài Gòn giai đoạn 1965 - 1967, sau năm 1975, ông ở lại đất nước và cố gắng để hòa nhập với cuộc sống mới, chế độ mới. Mặc dù với những chức vụ quan trọng mà ông đã từng đảm nhiệm của chế độ cũ, nên sau năm 1975, ông đã rất chật vật để gắng hòa nhập vào chế độ mới. Ông Nguyễn Hữu Có thuộc diện ưu tiên được ra nước ngoài sinh sống nhưng ông và vợ vẫn quyết định ở lại, không ra đi để cố gắng góp sức mình thúc đẩy hòa giải, hòa hợp dân tộc. 1994, ông được MTTQ TP.HCM mời tham gia như một "nhân sĩ tự do". Vợ của ông cũng được mời tham gia Ủy viên Ủy ban MTTQ TP.HCM. Cuối năm 2004, ông Nguyễn Hữu Có được hiệp thương đảm nhiệm Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam.

Sinh thời, ông đã viết: “Từ sau ngày đất nước thật sự độc lập và thống nhất, đã có rất nhiều chuyển biến, không phải chỉ là một mặt mà ở nhiều mặt, không phải chỉ ở một phía, mà nhiều phía. Tôi ra đường, ra phố bây giờ ai cũng gọi tôi là anh, là bác. Đó là kết quả của những chuyển biến tích cực của xóm, phường, của chế độ và của chính tôi... Tôi đã chọn ở lại với quê hương, với dân tộc và tôi thật sự cảm thấy hạnh phúc...”.

Đối với những "lầm đường, lạc lối" người khác, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng nhất quán quan điểm và chính sách là gác lại những bất đồng chung, cùng nhau thật thà đoàn kết, hòa hợp và hòa giải để cùng chung sức xây dựng đất nước. Ông Ya Đuk, người dân tộc Cơ Ho Lâm Đồng nguyên là Đệ nhất Phó thủ tướng của lực lượng FULRO, sau nhiều năm sống trong rừng sâu chống lại chính quyền, sau khi được tuyên truyền, thuyết phục và hiểu chính sách đúng đắn của Nhà nước ta, ông đã quay về với nhân dân. Sau khi trở về, ông được Đảng và Nhà nước trân trọng sử dụng. Ông trở thành Phó chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Lâm Đồng, đại biểu Quốc hội khóa 13. Trong đợt nghiên cứu, học tập các nghị quyết của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc, công tác tôn giáo, ông đã viết: “Xin cảm ơn Đảng Cộng sản Việt Nam, cảm ơn Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã đem lại cho bà con dân tộc thiểu số quyền được làm một công dân của một đất nước độc lập, dân chủ, có cuộc sống ngày một ấm no, hạnh phúc và tiến bộ. Những thay đổi to lớn đó là ước mơ của đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên từ bao đời nay”.

Năm 2001, khi các thế lực xấu lợi dụng, kích động một số đồng bào của các dân tộc ở Tây Nguyên biểu tình, bạo loạn, ông Ya Duk đã cực lực lên án các vụ biểu tình gây rối, bạo loạn khi khẳng định: “Đến nay, vẫn còn một số ít bà con dân tộc thiểu số Tây Nguyên bị kẻ xấu lợi dụng, kích động, chia rẽ, xúi giục, mua chuộc, đã tụ tập đông người có hành động gây rối. Đây chính là hành động mang màu sắc chính trị xấu xa, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước”.

Ở Việt Nam, có nhiều người Việt đã ra đi nước ngoài trong những hoàn cảnh khác nhau. Đa số đồng bào ở nước ngoài luôn hướng về quê hương và có những đóng góp thiết thực cho sự phát triển của đất nước. Thế nhưng, hiện nay, để chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, đã có một số người xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam về hòa giải, hòa hợp dân tộc. Thế nhưng, chính các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, chính những thành tựu không thể phủ nhận của đất nước đã hoàn toàn bác bỏ các luận điệu phi lý này.

Đối với đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Lúc sinh thời, ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng, cựu Phó tổng thống của chính quyền Sài Gòn, một người nổi tiếng chống cộng, khi về nước, tận mắt chứng kiến những đổi thay tốt đẹp nhiều mặt của đất nước, ông đã có những phát biểu thật sự thẳng thắn và tích cực về tình hình đất nước. Trước hiện tượng một số người ở nước ngoài, nhất là ở Hoa Kỳ còn nuôi tư tưởng cực đoan, hằn thù, ông Nguyễn Cao Kỳ đã cực lên án và khẳng định: “Nếu họ thật sự yêu nước thì họ phải biết ngồi im và biết suy nghĩ chứ đừng đi theo một lũ côn đồ, hám danh, hám lợi, lừa gạt mọi người ”. Có lẽ chỉ một phát biểu này của người từng đứng đầu chính phủ Sài Gòn cũng đủ lột tả hết bộ mặt của những người luôn kêu gào và chống phá ở hải ngoại...

***************
Có thể khẳng định rằng, hòa giải và hòa hợp dân tộc là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những chủ trương về hòa giải và hòa hợp dân tộc đã có từ lâu, đã có trước ngày đất nước thống nhất. Càng về sau, hòa giải và hòa hợp dân tộc càng được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm nhiều hơn với những chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp. Đặc biệt, kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng trở đi, thực hiện đường lối đổi mới đất nước, rất nhiều các chủ trương, chính sách về đại đoàn kết dân tộc, về hòa giải, hòa hợp dân tộc tiếp tục được ban hành và thực thi.

Ngày 17.11.1993, Bộ Chính trị khóa VII đã ban hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất”. Nghị quyết khẳng định nội dung cơ bản của đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam là: “Đoàn kết mọi người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và người định cư ở nước ngoài ”. Nghị quyết khẳng định “chấp nhận những điểm khác nhau, không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, hướng về tương lai, xây dựng tinh thần đoàn kết, cởi mở, tin cậy lẫn nhau... ”.

Tiếp tục tinh thần này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” (Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12.3.2003) nhấn mạnh: “Ðại đoàn kết toàn dân tộc lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”.

Gần đây, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc” (Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24.11.2023) tiếp tục khẳng định: “Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân”.

Các văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng từ đổi mới đến nay đều khẳng định chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam về hòa giải, hòa hợp dân tộc. Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Từ những chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng về hòa giải và hòa hợp dân tộc, Nhà nước đã thể chế hóa, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật. Tất cả những quy định này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả thiết thực được chứng minh bằng những thành tựu to lớn về mọi mặt của đất nước sau 45 năm thống nhất và gần 35 năm đổi mới. Chính sự phát triển mọi mặt của đất nước, chính tinh thần đại đoàn kết dân tộc đã chứng minh và bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc, vu cáo vô căn cứ của một số người vẫn luôn mang trong mình thiên kiến hẹp hòi và tư tưởng hằn học.

Những thành tựu mà đất nước đạt được từ khi Tổ quốc thống nhất đến nay là to lớn. Thành tựu ấy được cộng hưởng từ rất nhiều nhân tố khác nhau, trong đó không thể thiếu sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ấy đã được sinh sôi, nảy nở và phát triển trên nền của những chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước về đại đoàn kết toàn dân tộc, về hòa giải và hòa hợp dân tộc trên tinh thần lấy đại nghĩa dân tộc làm trọng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc.

Hiện nay, vẫn còn một bộ phận nhỏ cả ở trong và ngoài nước đang đi ngược lại xu thế hòa hợp và hòa giải dân tộc. Thế nhưng, chúng ta tin tưởng rằng với những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, bằng chiều sâu văn hóa của dân tộc được xây dựng trên tình dân tộc, nghĩa đồng bào, chắc chắn những rạn nứt và ngăn cách sẽ tiếp tục được khỏa lấp và xóa bỏ để tất cả mọi người dân Việt Nam ở trong và ngoài nước cùng đoàn kết bên nhau, xây dựng một nước Việt Nam hùng cường và thịnh vượng.

Tài liệu tham khảo

1. Báo Người Lao động ngày 8.8.2001.

2. Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (2012), Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 1.

3. Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước - Trung tâm Lưu trữ quốc gia II (2012), Hiệp định Paris về Việt Nam năm 1973 qua tài liệu của chính quyền Sài Gòn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 2.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12-3-2003 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26.3.2004 của Bộ Chính trị “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Đại thắng mùa Xuân 1975 - Văn kiện Đảng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.53.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24.11.2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) “Về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.

11. Hội đồng lý luận Trung ương (2004), Lẽ phải của chúng ta, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

12. Nhiều tác giả (1998), Luật sư Nguyễn Hữu Thọ - người con tận trung với nước, tận hiếu với dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Hữu Thái (2018), Sài Gòn có một thời như thế, NXB Tổng hợp TP.HCM.

14. Tạp chí Mặt trận, số 2 (tháng 11.2001).

Vũ Trung Kiên - Châu Quốc Hùng