Hồ Tấn Vũ viết tiểu thuyết như một cách xác tín ký ức, từ vùng sương mù quê nhà, từ bóng tối hầm sâu, từ những phận người lầm lũi nhưng chưa từng tắt niềm tin vào cuộc sống.
Văn hóa

Hồ Tấn Vũ - Người kể chuyện bước ra từ lòng đất

Tiểu Vũ 04/06/2025 21:12

Hồ Tấn Vũ viết tiểu thuyết như một cách xác tín ký ức, từ vùng sương mù quê nhà, từ bóng tối hầm sâu, từ những phận người lầm lũi nhưng chưa từng tắt niềm tin vào cuộc sống.

Không phải ai viết văn cũng khởi đầu bằng đam mê. Có người cầm bút vì ám ảnh. Có người viết để nhớ. Có người viết vì một sự thôi thúc không rõ hình hài, như thể nếu không viết ra, mọi điều từng thấy sẽ tan vào hư vô. Hồ Tấn Vũ có lẽ thuộc về nhóm sau. Anh không xuất thân từ trường văn chương, cũng không lớn lên cùng sách vở. Trước khi trở thành nhà báo, Vũ từng là phu đào vàng, sống trong lòng đất, hít khói mìn, đào từng xẻng đá mang ra suối đãi để mưu sinh. Những trải nghiệm đó, không trường lớp nào dạy được, nay lắng lại trong hơn bốn trăm trang tiểu thuyết đầu tay Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng.

462337742_8537014246366521_5595151928080247123_n.jpg
Chân dung nhà báo - tác giả Hồ Tấn Vũ - Ảnh: FBNV

Sinh năm 1978 ở Nông Sơn, Quảng Nam, Hồ Tấn Vũ lớn lên giữa núi đồi và sương mù. Tuổi thơ của anh trôi qua trên cánh đồng Chuông lặng lẽ, nơi khói lam và ánh ráng chiều quấn quýt bên dòng sông Thu, nơi lũ trẻ con gọi nhau bằng tiếng Quảng đặc sệt, và nơi mỗi câu chuyện truyền miệng đều mang bóng dáng huyền thoại. Nhưng đời sống không bao giờ yên ả lâu. Mười tám tuổi, thay vì vào đại học, Vũ theo người thân lên vùng rừng Phước Sơn đào đãi vàng để mưu sinh. Đó là khoảng thời gian ám ảnh nhất, Vũ sống sót sau những cơn lũ quét dội sập hầm, từng chôn bạn dưới lớp đất đá lạnh buốt. Tất cả nay lặng lẽ quay lại trên từng trang văn, như một cách gọi tên những gì không ai khác từng chứng kiến.

Sau này, khi đã tốt nghiệp Đại học Kinh tế Đà Nẵng, Hồ Tấn Vũ không đi làm kinh tế mà về đầu quân cho báo Tuổi Trẻ. Anh gắn bó nhiều năm với địa bàn miền Trung, từ Quảng Trị trở vào đến Quảng Ngãi, trước khi được bổ nhiệm làm Trưởng Văn phòng đại diện khu vực Trung Trung Bộ. Anh đi cùng ngư dân Trường Sa, cùng người miền núi Trà My, cùng nạn nhân các trận sạt lở, cháy rừng, để ghi lại những lát cắt cuộc sống thô nhám nhưng chưa bao giờ tắt ánh nhìn nhân bản. Giữa những chuyến đi, anh lặng lẽ ghi chép, lưu lại những cảm xúc chưa có chỗ nói ra. Và rồi, sau nhiều năm, những mảnh vụn đời sống ấy được gom lại thành một cuốn tiểu thuyết.

Với người viết báo, sự thật là điểm đến. Với người viết văn, sự thật là xuất phát điểm. Hồ Tấn Vũ hiểu rõ điều đó. Và trong cuốn sách đầu tay của mình, anh không cố chứng minh mình là nhà văn. Anh chỉ kể lại, bằng giọng văn tiết chế, bằng từng mạch ký ức không cần dựng cảnh. Bởi theo anh, có những sự thật không thể kiểm chứng nhưng vẫn tồn tại. Có những câu chuyện không ai ghi lại, nhưng vẫn cần được lưu giữ, nếu không sẽ mất mãi mãi.

Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng không đi theo cấu trúc tiểu thuyết truyền thống. Không có cao trào rõ rệt, không tuyến phản diện, không tuyên ngôn nghệ thuật. Tác phẩm được chia làm ba phần: Gió qua làng Hạ, Vũ điệu dưới hầm sâu, Quần đảo lạc loài. Mỗi phần là một lát cắt, một lớp tâm thức, một tầng sống, không để kể chuyện mà để giữ lại những phần đời đã từng hiện hữu.

494733938_9274605209314676_4095540866927359236_n.jpg
Tác phẩm Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng (NXB Đà Nẵng, 6.2025) - Ảnh: Ngọc Thủy

Phần đầu, Gió qua làng Hạ, mở ra bằng khói rượu, sương chiều và những câu chuyện chậm rãi của một miền quê như bị nhấn chìm trong quên lãng. Những người đàn ông đi biệt. Những người đàn bà ở lại. Những đứa trẻ lớn lên giữa thiếu thốn và mộng tưởng. Tấn, nhân vật chính, mang ánh mắt của một người đứng bên lề, quan sát tất cả như thể đang lần theo ký ức của chính mình. Làng Hạ hiện ra không trừu tượng, mà cụ thể đến từng mùi mồ hôi, tiếng chổi chà, vỏ chai rượu ngâm, và bóng người sau lũy tre. Tất cả như tan vào nhau, vừa gần vừa xa, vừa thực vừa mơ.

Phần hai, Vũ điệu dưới hầm sâu, là nơi ký ức chuyển thành bóng tối. Ở đó, nhân vật không còn nói nhiều. Câu văn ngắn lại, rút gọn, đứt quãng như nhịp thở của người đào mỏ. Những cái chết được kể lại trong vài dòng. Một cái chạm tay, một ánh nhìn, một dấu chấm lửng. Tất cả như lời tiễn đưa không thành tiếng. Không ai khóc trong phần này. Nhưng người đọc rơi vào một khoảng lặng thăm thẳm. Càng không nói, càng đau. Văn chương của Vũ ở đây không còn trang trí. Nó lặng như lớp đất bị nén chặt suốt nhiều năm, nay chỉ kịp thở ra bằng một câu văn tiết chế.

498631387_3082468841891364_4341754559420980909_n.jpg
Nhà báo Hồ Tấn Vũ (trái) và nhà văn Nguyễn Ngọc Hạnh - Ảnh: FBNV

Ít ai biết rằng Hồ Tấn Vũ từng kéo xác bạn mình khỏi lớp đá sập hầm, từng ngủ dưới lòng đất sâu đến mức mất phương hướng, đôi mắt từng bị mờ do khói mìn, không còn nhận ra ngày đêm. Nhưng anh không tô đậm điều đó. Không gào thét. Không bấu víu vào cảm xúc. Chỉ lặng lẽ ghi lại. Một dạng chứng thực của riêng anh. Như thể nếu không viết ra, mọi điều ấy sẽ mãi chìm vào quên lãng.

Tấn sau đó rời khỏi lòng đất để đến đảo. Một quần thể không xác định vị trí địa lý, nhưng rất thật trong tầng sâu tâm thức. Quần đảo lạc loài không có người thân, không có đường về, chỉ có tiếng gió và những câu hỏi không lời đáp. “Sống để làm gì?”, “Giữ lại ký ức có ích gì?”, “Viết có thay đổi được điều gì không?” – đó là những gì Tấn, và cả người viết, tự chất vấn. Không ai trả lời. Không cần trả lời. Việc đặt ra câu hỏi trong im lặng đã đủ là hành động sống rồi.

Ngôn ngữ trong Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng không bóng bẩy. Nó như giọng Quảng Nam nguyên bản, thô, mộc, gai góc. Nhưng ai từng nghe sẽ không thể quên. Văn của Vũ đôi khi như tiếng thở. Có lúc là nốt lặng. Có lúc chỉ là một khoảng trắng sau một câu không tròn nghĩa. Nhưng chính nhịp điệu đó khiến người đọc không lướt qua được. Mỗi đoạn viết như một lần nhắm mắt bước xuống hầm. Không phải để thương cảm, mà để xác nhận rằng điều này đã từng xảy ra. Và nếu không ai nhớ, nó sẽ mất đi.

Giữa báo chí và văn chương, Hồ Tấn Vũ không chọn một bên. Anh đi từ một phía sang phía kia bằng đôi chân trần, để lại dấu vết. Không cần tuyên bố. Không cần tuyên ngôn. Chỉ viết, như một hành động giữ lại. Có thể là một giọng nói. Một cánh đồng. Một ánh nhìn. Một cái chết không ai chứng kiến. Tất cả, nếu không có ai kể, sẽ tan biến như sương. Và anh, người kể chuyện bước ra từ lòng đất, đã chọn làm điều đó, bằng cuốn sách này.

Tiểu thuyết không phải là giấc mơ văn chương của Hồ Tấn Vũ. Nó là nỗ lực gìn giữ. Là trí nhớ chảy qua từng lớp đất đá, từng khe sương, từng ánh nhìn của những người từng sống bên anh mà giờ không còn nữa. Tấn trong truyện không phải là một nhân vật được dựng. Mà là một người thực, gom lại từ hàng trăm mảnh người mà anh từng gặp. Mỗi ly rượu, mỗi cơn đói, mỗi vết cào trong hầm vàng, đều là thứ từng diễn ra.

500949293_24153790050879219_5896397671627053371_n.jpg
Nhà báo Hồ Tấn Vũ và người đồng hương - ca sĩ Ánh Tuyết - Ảnh: Hoàng Sơn

Trong thời đại dễ dãi với xúc cảm và văn chương công thức, Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng của Hồ Tấn Vũ là một thứ gì đó không cần phải được định danh. Nó có thể là tiểu thuyết. Có thể là một dòng ký ức chưa từng nói ra. Có thể là một lời chứng cuối cùng của một người từng bước ra khỏi bóng tối và vẫn còn nhớ ánh sáng.

Độc giả có thể không mong chờ một cuốn tiểu thuyết, nhưng câu chuyện của Hồ Tấn Vũ vẫn chạm đến trái tim. Tác phẩm này như một bài ca về vẻ đẹp bình dị và sức sống bền bỉ của những phận người miền Trung. Dù hành trình bắt đầu từ bóng tối hầm sâu, từ sương mù thung lũng, cuối cùng nó hé lộ một tia sáng. Ánh sáng của tin yêu và hy vọng. Khi gấp lại trang cuối, độc giả vẫn nghe văng vẳng lời ru của núi rừng, dòng sông và niềm tin chưa từng tắt phía cuối đường.

Thật hiếm có nhà báo nào bước qua cánh cửa văn học và để lại dấu ấn đẹp đẽ như thế. Hồ Tấn Vũ đã biến những lát cắt trong đời sống thăng trầm của chính mình thành những trang viết giản dị đến mức trần trụi. Trong nhiều đoạn, chất giọng Quảng Nam lẫn vào mạch văn như một cách giữ lại hồn quê. Ngôn ngữ trong truyện không gọt giũa kiểu cách, có phần thô ráp, nhưng đủ sức khiến người đọc dừng lại vì nó rất thật. Những câu văn ngắn, giàu tiết chế, tạo thành nhịp điệu gằn, chắc, đôi lúc như tiếng thở nén lại.

So với nhiều cây bút khác, Hồ Tấn Vũ cho thấy văn chương không phải là lối thoát xa rời hiện thực, mà chính là cách trân trọng thực tại. Cuốn tiểu thuyết này như tuyên ngôn: tình yêu với đất và con người, với ký ức và hy vọng. Đất trời miền Trung như in đậm trong từng câu chữ của anh. Hành trình của Vũ như ôn lại hết dòng sông, nếp nhà, tuổi thơ xưa; để chứng minh rằng từ lòng đất, người kể chuyện cũng có thể bước ra và làm rạng rỡ cả bầu trời.

Bài liên quan
Nhà văn trẻ Thương Hà và cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam
“Vùng biên không yên tĩnh” của nữ nhà văn Thương Hà có một cách tiếp cận khá mới về đề tài “Chiến tranh và người lính” theo mảng chủ đề di chứng thời hậu chiến đang tạo nên sự chú ý trong dư luận văn chương hiện nay.

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Thủ tướng Phạm Minh Chính lên đường công tác tại 3 nước châu Âu
1 giờ trước Sự kiện
Rạng sáng 5.6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời thủ đô Hà Nội lên đường tham dự Hội nghị Đại dương Liên Hợp Quốc lần thứ 3 (UNOC 3), tiến hành các hoạt động song phương tại Cộng hòa Pháp.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Hồ Tấn Vũ - Người kể chuyện bước ra từ lòng đất