Để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, Việt Nam cần có khung pháp lý đầy đủ, minh bạch. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Bảo vệ môi trường

Để vận hành thị trường carbon: Việt Nam cần cơ chế mạnh

Tuyết Nhung 17/06/2025 17:23

Để thị trường tín chỉ carbon vận hành hiệu quả, Việt Nam cần có khung pháp lý đầy đủ, minh bạch. Đây là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Đó là bài toán được các chuyên gia khoa học bàn luận tại hội thảo "Chính sách phát triển thị trường tín chỉ carbon - Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị" ngày 17.6 tại Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA).

Thị trường sơ khai

Thị trường carbon là một cơ chế kinh tế được thiết kế nhằm kiểm soát và giảm phát thải khí nhà kính (GHG), thông qua việc định lượng và định giá phát thải dưới dạng tín chỉ có thể giao dịch. Cơ chế này ra đời từ sự can thiệp của nhà nước nhằm khắc phục "thất bại thị trường" trong việc kiểm soát ô nhiễm môi trường, khi các doanh nghiệp không tự nguyện đầu tư giảm phát thải do chi phí cao và thiếu động lực kinh tế.

507936906_1531287997856539_5751608545752591338_n.jpg
Hội thảo "Chính sách phát triển thị trường tín chỉ carbon - Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị" - Ảnh: T.N

Trong thị trường carbon, các chủ thể phát thải được cấp hoặc mua hạn ngạch phát thải, và có thể giao dịch quyền phát thải dư thừa hoặc cần thiết thông qua sàn giao dịch chuyên biệt. Nhờ đó, những chủ thể giảm phát thải hiệu quả có thể bán lại phần dư thừa cho những đơn vị phát thải vượt quá giới hạn, tạo ra động lực tài chính cho việc giảm phát thải.

Để đảm bảo thị trường này hoạt động minh bạch, công bằng và hiệu quả, cần có một cấu trúc đầy đủ với các yếu tố nền tảng như: khung pháp lý và chính sách điều chỉnh; cơ quan quản lý và giám sát; hàng hóa giao dịch (hạn ngạch phát thải và tín chỉ carbon); hệ thống đo lường, báo cáo, thẩm định (MRV); sàn giao dịch và hệ thống đăng ký; các cơ chế thanh toán, lưu ký và xử phạt vi phạm. Những yếu tố này không chỉ giúp thị trường vận hành ổn định, mà còn bảo đảm sự gắn kết với mục tiêu khí hậu quốc gia.

Khung pháp lý cho thị trường carbon tại Việt Nam được hình thành với các văn bản pháp luật chủ chốt bắt đầu từ Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, trong đó điều 139 quy định nền tảng pháp lý cơ bản cho việc xây dựng thị trường carbon trong nước. Tiếp theo, Nghị định số 06 được ban hành nhằm quy định chi tiết về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone, đồng thời hướng dẫn thực hiện các nội dung tại điều 91 và điều 139 của Luật Bảo vệ môi trường. Dựa trên nghị định này, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13 nhằm công bố danh mục các lĩnh vực và cơ sở phải kiểm kê khí nhà kính, là những đối tượng sẽ tham gia thị trường carbon.

Trong giai đoạn thí điểm, các thực thể phát thải lớn trong các ngành nhiệt điện, sắt thép và xi măng sẽ là các đối tượng tham gia chính. Mới đây, Thủ tướng đã ban hành Quyết định số 232 về phê duyệt Đề án thiết lập và phát triển thị trường carbon tại Việt Nam, cung cấp các quy định chi tiết để tổ chức và vận hành thị trường này trong tương lai.

PGS-TS Hoàng Văn Phụ - Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Kinh tế và phát triển - nhìn nhận thị trường tín chỉ carbon của nước ta mới đang trong giai đoạn manh nha hình thành và chỉ được quan tâm trong thời gian gần đây, các hoạt động mua bán tín chỉ carbon mới dừng lại ở hoạt động tự phát, rời rạc và nhỏ lẻ. Do đó, hệ thống chính sách để định hướng, khuyến khích và hỗ trợ thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon phát triển cũng đang trong giai đoạn sơ khai.

Do đó, nhiều doanh nghiệp chưa thấy rõ lợi ích kinh tế từ việc giảm phát thải và tham gia thị trường carbon. Chi phí ban đầu để đầu tư vào công nghệ giảm phát thải cao, trong khi lợi nhuận từ tín chỉ carbon chưa rõ ràng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ không có thông tin đầy đủ về quy trình phát triển dự án carbon, bán tín chỉ hay tham gia các cơ chế cụ thể của thị trường carbon

Đề xuất khung pháp lý cho thị trường carbon ở Việt Nam

TS Hồ Công Hòa, chuyên gia tại Học viện Chính sách và phát triển cho rằng Việt Nam đang đứng trước thời điểm chiến lược để định hình thị trường carbon phù hợp với định hướng phát triển kinh tế carbon thấp và cam kết Net Zero đến năm 2050.

Để xây dựng và vận hành hiệu quả thị trường carbon tại Việt Nam trong giai đoạn tới, đồng thời bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và khả năng hội nhập quốc tế, TS Hòa khuyến nghị Việt Nam cần có một hệ thống giải pháp pháp lý đồng bộ, phù hợp với điều kiện trong nước và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế. Trong đó, cần điều chỉnh, sửa đổi, hoặc bổ sung một số nội dung trong các dự thảo hiện nay để bảo đảm tính thực tiễn, minh bạch và khả năng tương thích với thông lệ quốc tế.

Thứ nhất là hoàn thiện khung pháp lý chuyên biệt, rõ ràng và đồng bộ.

Một trong những điều kiện tiên quyết để thị trường carbon Việt Nam vận hành hiệu quả là phải có khung pháp lý đầy đủ, thống nhất và có hiệu lực pháp lý cao. Hiện nay, các quy định như Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định 06 và Quyết định 232 mới chỉ là khung nền ban đầu. Dự thảo sửa đổi Nghị định 06 và dự thảo Nghị định về sàn giao dịch carbon đã có nhiều tiến bộ, song vẫn chưa xác lập rõ địa vị pháp lý của các loại hàng hóa thị trường (như tín chỉ carbon hay hạn ngạch phát thải là loại tài sản gì), chưa có quy định chi tiết về cơ chế giao dịch phái sinh, cơ chế thanh toán bù trừ, hoặc phân biệt rõ giữa thị trường bắt buộc và tự nguyện.

Do đó, cần xem xét bổ sung, làm rõ địa vị pháp lý của các loại hàng hóa thị trường (như tín chỉ carbon hay hạn ngạch phát thải là loại tài sản gì), quy định chi tiết về cơ chế giao dịch phái sinh, cơ chế thanh toán bù trừ, hoặc phân biệt rõ giữa thị trường bắt buộc và tự nguyện.

Thứ hai là xây dựng cơ chế điều phối liên ngành và tăng cường năng lực thể chế.

Thị trường carbon là một công cụ điều tiết liên ngành, do đó cần có một cơ chế điều phối tập trung, có thể dưới hình thức ủy ban điều phối thị trường carbon quốc gia do Thủ tướng chỉ đạo. Các bộ ngành như Bộ Nông nghiệp - Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương... cần phối hợp chặt chẽ trên cơ sở quy định rõ vai trò, trách nhiệm tại nghị định sửa đổi và dự thảo sàn giao dịch.

Thứ ba là hoàn thiện cơ chế phân bổ, đấu giá và bù trừ hạn ngạch phát thải.

Đó là cần làm rõ hơn phương pháp luận tính hạn ngạch, cơ chế phân bổ dựa trên chuẩn hiệu suất (benchmarking), và tiến tới áp dụng cơ chế đấu giá minh bạch từ năm 2028. Ngoài ra, cần bổ sung quy định rõ ràng điều kiện sử dụng hạn ngạch dự phòng.

Thứ tư là thiết lập hệ thống MRV và hạ tầng dữ liệu minh bạch, đồng bộ.

Các dự thảo hiện tại đã quy định trách nhiệm kiểm kê khí nhà kính, tuy nhiên cần cụ thể hóa chuẩn MRV theo IPCC, ISO 14064, và các hướng dẫn quốc tế khác. Việc cấp phép, kiểm soát và công bố thông tin của các tổ chức thẩm định cần được minh bạch hóa và công khai, có thể tích hợp với hệ thống đăng ký quốc gia. Ngoài ra, cần đẩy nhanh xây dựng nền tảng số về cơ sở dữ liệu phát thải quốc gia, là nền tảng quan trọng để vận hành hiệu quả cơ chế giao dịch, quản lý tín chỉ, phân tích thị trường và kiểm soát rủi ro gian lận.

Thứ năm là xây dựng sàn giao dịch carbon quốc gia theo chuẩn quốc tế.

Dự thảo Nghị định về sàn giao dịch carbon quy định việc tổ chức sàn tại Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. TS Hòa cho rằng cần làm rõ quy chế giao dịch, hệ thống thanh toán, khớp lệnh, đăng ký lưu ký, đấu giá và giám sát giao dịch, đặc biệt là tính liên thông giữa hệ thống đăng ký hạn ngạch, tín chỉ carbon (vai trò của Bộ Nông nghiệp - Môi trường) với hệ thống giao dịch, thanh toán (vai trò Bộ Tài chính). Ngoài ra, nên bổ sung quy định về phát triển các sản phẩm tài chính thứ cấp như hợp đồng tương lai, quyền chọn hoặc thế chấp tín chỉ để tăng thanh khoản và hấp dẫn thị trường.

Thứ sáu là áp dụng chính sách thuế, phí và ưu đãi tài chính phù hợp.

Theo TS Hòa, cần bổ sung quy định về miễn/giảm thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp cho các giao dịch carbon trong giai đoạn đầu. Đồng thời, cần quy định mức phí hợp lý cho mở tài khoản, giao dịch và giám sát để bảo đảm vận hành thị trường ổn định; nghiên cứu bổ sung cơ chế sử dụng nguồn thu từ đấu giá hạn ngạch, nên quy định rõ nguồn thu này được phân bổ cho quỹ môi trường hoặc các chương trình hỗ trợ công nghệ giảm phát thải trong dự thảo nghị định về sàn giao dịch carbon.

Thứ bảy là cần tăng cường cơ chế xử phạt và công khai vi phạm.

Các dự thảo đã bước đầu đề cập đến cơ chế nộp trả, nhưng chưa quy định rõ mức phạt cho hành vi không tuân thủ hoặc thao túng thị trường. Cần bổ sung quy định xử phạt tài chính cụ thể, có thể tham khảo mô hình EU là 100 euro/tấn CO2 vượt mức, hoặc theo tỷ lệ 3 lần giá giao dịch trung bình. Ngoài ra, cần có cơ chế công khai vi phạm, tạm đình chỉ quyền giao dịch, hạn chế phân bổ trong chu kỳ tiếp theo đối với các cơ sở vi phạm lặp lại.

Bài liên quan
Thế chấp tài sản số, tín chỉ carbon tại ngân hàng liệu có khả thi?
Việc thiếu vắng khung pháp lý không chỉ khiến các ngân hàng e dè trong việc nhận tài sản số làm bảo đảm, mà còn gây khó khăn cho việc xác định giá trị, xử lý tài sản khi phát sinh rủi ro.

(0) Bình luận
Nổi bật Một thế giới
Ngày 18.6, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại hội trường về kinh tế xã hội
3 phút trước Sự kiện
Theo chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, ngày 18.6.2025 Quốc hội tiếp tục thảo luận đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2024; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2025.
Đừng bỏ lỡ
Mới nhất
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO
Để vận hành thị trường carbon: Việt Nam cần cơ chế mạnh